Kinh - Kệ

Bồ Tát Phổ Hiền

✍️ Mục lục: Kinh Hạnh nguyện Phổ Hiền

Hạnh nguyện PHỔ HIỀN

Pháp sư tam tạng Bát Nhã dịch từ Phạn văn ra Hán văn

Lúc bấy giờ Bồ Tát Phổ Hiền, sau khi khen ngợi Công đức thù thắng của đức Như Lai, [1] bèn nói với chư vị Bồ Tát và Thiện Tài [2] rằng: Này Thiện nam tử! Công đức của đức Như Lai, giả sử tất cả các đức Phật ở Mười Phương, trải qua số kiếp nhiều như vi trần [3], ở các cõi Phật nhiều không thể nói hết, diễn nói không ngừng về Công đức ấy, cũng không thể nào nói hết được. Nếu muốn thành tựu được Công đức ấy, cần phải tu tập mười Hạnh nguyện rộng lớn. Mười Hạnh nguyện ấy là gì?

Một là kính lễ Chư Phật;
Hai là khen ngợi Như Lai;
Ba là cúng dường rộng khắp;
Bốn là sám hối nghiệp chướng;
Năm là tùy hỉ Công đức;
Sáu là thỉnh Phật thuyết pháp;
Bảy là thỉnh Phật thường trụ ở đời;
Tám là tinh tấn tu học theo Phật;
Chín là hằng thuận Chúng Sinh;
Mười là hồi hướng đến khắp tất cả.

Thiện Tài thưa rằng: Bạch Đại Thánh! Từ Hạnh nguyện “kính lễ” cho đến Hạnh nguyện “hồi hướng”, ý nghĩa thế nào?

Bồ Tát Phổ Hiền bảo Thiện Tài rằng:

👉Này Thiện nam tử! Hạnh nguyện “Kính lễ Chư Phật” có nghĩa như thế này: Đối với Chư Phật Thế Tôn nhiều như vi trần trong tất cả cõi Phật ở khắp Mười Phương ba đời, tận cùng hư không Pháp Giới, tôi nhờ vào sức Hạnh nguyện Phổ Hiền [4], tin hiểu sâu xa, thấy Chư Phật như đều đang ở trước mắt; tôi sẽ đem ba nghiệp thân miệng ý hoàn toàn Thanh Tịnh, thường cung kính lễ bái. Nơi chỗ ở của mỗi đức Phật đều hóa hiện vô số cõi Phật không thể nói hết, trong đó lại hóa hiện số thân tôi nhiều như vi trần; mỗi thân đó tôi đều kính lễ khắp các đức Phật nhiều như vi trần trong khắp các cõi Phật không thể nói hết.

Khi nào cõi hư không hết thì hạnh kính lễ của tôi mới chấm dứt. Nhưng vì cõi hư không không bao giờ hết, nên sự kính lễ của tôi cũng không bao giờ chấm dứt. Cũng như vậy, cho đến khi nào cõi Chúng Sinh hết, nghiệp của Chúng Sinh hết, phiền não của Chúng Sinh hết, thì hạnh kính lễ của tôi mới chấm dứt; nhưng cõi Chúng Sinh, nghiệp Chúng Sinh và phiền não Chúng Sinh không bao giờ hết, cho nên hạnh kính lễ của tôi cũng không bao giờ chấm dứt. Niệm niệm nối nhau không gián đoạn, ba nghiệp thân miệng ý không nhàm chán mệt mỏi.

👉Lại nữa, này Thiện nam tử! Hạnh nguyện “Khen ngợi Như Lai” có nghĩa như thế này: Trong mỗi một vi trần ở tất cả Quốc độ trong khắp Mười Phương ba đời, tận cùng hư không Pháp Giới, đều có vô số Chư Phật nhiều như vi trần trong tất cả Thế Gian, nơi chỗ ở của mỗi đức Phật đều có vô số Bồ Tát tụ hội vây quanh, tôi sẽ đem hết những kiến giải sâu xa hiện có, trước mỗi vị tôi đều dùng cái lưỡi vi diệu hơn cả thiên nữ Biện Tài [5], mỗi cái lưỡi đều phát ra biển âm thanh vô tận, mỗi âm thanh lại phát ra tất cả biển ngôn từ, để xưng dương tán thán tất cả biển Công đức của Như Lai, trùm khắp tận cùng Pháp Giới, nối tiếp mãi cho đến tận cùng đời vị lai, không bao giờ gián đoạn.

Cứ như thế, cho đến khi nào cõi hư không hết, cõi Chúng Sinh hết, nghiệp Chúng Sinh hết, phiền não Chúng Sinh hết, thì hạnh khen ngợi của tôi mới chấm dứt. Nhưng vì cõi hư không, cõi Chúng Sinh, nghiệp Chúng Sinh, và phiền não Chúng Sinh không bao giờ hết, cho nên hạnh khen ngợi của tôi cũng không bao giờ chấm dứt. Niệm niệm nối nhau không gián đoạn, ba nghiệp thân miệng ý không nhàm chán mệt mỏi.

👉Lại nữa, này Thiện nam tử! Hạnh nguyện “Cúng dường rộng khắp” có nghĩa như thế này: Trong tất cả các cõi Phật ở khắp Mười Phương ba đời, cùng tận hư không Pháp Giới, có bao nhiêu số vi trần cực nhỏ, trong mỗi vi trần đó lại có Chư Phật nhiều như số vi trần trong tất cả Thế Giới, nơi chỗ ở của mỗi đức Phật đều có vô số Bồ Tát tụ hội vây quanh, tôi nhờ vào sức Hạnh nguyện Phổ Hiền, phát khởi lòng tin hiểu sâu xa, thấy Chư Phật như hiện đang trước mặt, đem hết những phẩm vật cúng dường thượng diệu để cúng dường Chư Phật. Các phẩm vật như mây hoa, mây tràng hoa, mây âm nhạc cõi trời, mây tàn lọng cõi trời, mây y phục cõi trời, các đám mây trên đây đều lớn như núi Tu Di; lại có nhiều loại hương thơm cõi trời như hương xoa, hương đốt, hương bột; lại thắp nhiều thứ đèn như đèn mỡ, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm, mỗi tim đèn đều lớn như núi Tu Di, dầu trong mỗi cây đèn đều nhiều như nước trong biển lớn; tôi thường đem các phẩm vật như trên để cúng dường. Này Thiện nam tử! Trong các thứ cúng dường thì “cúng dường pháp” [6] là hơn hết; như: nói việc tu hành là cúng dường, làm lợi ích cho Chúng Sinh là cúng dường, nhiếp thọ [7] Chúng Sinh là cúng dường, chịu đau khổ thay cho Chúng Sinh là cúng dường, siêng tu dưỡng căn lành là cúng dường, không bỏ sự nghiệp Bồ Tát là cúng dường, không xa rời tâm Bồ Đề là cúng dường. Này Thiện nam tử! Nếu đem vô lượng Công đức của sự cúng dường trên kia mà so sánh với chỉ một niệm Công đức của sự cúng dường pháp này thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, một phần trăm ngàn câu-chi [8] na-do-tha [9], một phần ca-la [10], một phần toán, một phần số, một phần dụ, cũng không bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà [11]. Vì sao thế? Vì các đức Như Lai rất tôn trọng chánh pháp. Nếu y theo giáo pháp mà tu hành thì sẽ sinh ra các đức Phật. Nếu chư Bồ Tát thực hành các cách cúng dường pháp thì sẽ thành tựu được Công đức cúng dường Như Lai. Tu hành như thế mới thật là cúng dường chân chính, và đó cũng là thứ cúng dường rộng lớn và thù thắng hơn hết.

Khi nào cõi hư không hết, cõi Chúng Sinh hết, nghiệp Chúng Sinh hết, phiền não Chúng Sinh hết, thì hạnh cúng dường của tôi mới chấm dứt; nhưng cõi hư không, cõi Chúng Sinh, nghiệp Chúng Sinh, và phiền não Chúng Sinh không bao giờ hết, cho nên hạnh cúng dường của tôi cũng không bao giờ chấm dứt. Niệm niệm nối nhau không gián đoạn, ba nghiệp thân miệng ý không nhàm chán mệt mỏi.

👉Lại nữa, này Thiện nam tử! Hạnh nguyện “Sám hối nghiệp chướng” có nghĩa như thế này: Bồ Tát tự nghĩ: Tôi từ vô thỉ kiếp trong quá khứ, do tham sân si nên thân miệng ý đã tạo ra vô lượng vô biên nghiệp ác. Nếu những nghiệp ác này mà có hình tướng thì khắp cõi hư không cũng không thể chứa hết được. Hôm nay, đối trước tất cả Chư Phật và chúng Bồ Tát ở các cõi nước nhiều như vi trần trong khắp Pháp Giới, tôi xin đem ba nghiệp Thanh Tịnh thành tâm sám hối, sau này thề không tái phạm, mà luôn luôn an trụ trong Công đức của giới pháp Thanh Tịnh.

Sám hối như thế, khi nào cõi hư không hết, cõi Chúng Sinh hết, nghiệp Chúng Sinh hết, phiền não Chúng Sinh hết, thì hạnh sám hối của tôi mới chấm dứt; nhưng cõi hư không, cõi Chúng Sinh, nghiệp Chúng Sinh, và phiền não Chúng Sinh không bao giờ hết, cho nên hạnh sám hối của tôi cũng không bao giờ chấm dứt. Niệm niệm nối nhau không gián đoạn, ba nghiệp thân miệng ý không nhàm chán mệt mỏi.

👉Lại nữa, này Thiện nam tử! Hạnh nguyện “Tùy hỉ Công đức” có nghĩa như thế này: Chư Phật Như Lai nhiều như vi trần trong tất cả các cõi Phật ở khắp Mười Phương ba đời, tận cùng hư không Pháp Giới, từ khi mới phát tâm [12], vì muốn thành tựu nhất thiết trí [13] mà các Ngài chuyên cần tu phước, chẳng tiếc thân mạng; trải qua số kiếp như vi trần ở các cõi Phật nhiều không thể nói hết, trong mỗi kiếp ấy các Ngài đều thí xả đầu mắt tay chân như số vi trần ở các cõi Phật nhiều không thể nói hết. Cứ như thế các Ngài chịu cực khổ để làm tất cả những việc khó làm, viên mãn mọi Pháp môn Giải Thoát, chứng nhập các trí địa của Bồ Tát [14], thành tựu Đạo quả Bồ Đề Vô Thượng, cho đến khi nhập niết bàn và phân chia xá lợi. Tất cả căn lành ấy của Chư Phật, tôi đều xin tùy hỉ. Chẳng những thế, đối với tất cả Chúng Sinh trong bốn loài [15], sáu nẻo [16] ở khắp cả Mười Phương Thế Giới, nếu họ có Công đức, dù chỉ nhỏ như hạt bụi, tôi cũng đều tùy hỉ. Tất cả các bậc hữu học và vô học [17] trong hàng Thanh Văn, Phật Bích Chi, có bao nhiêu Công đức tôi đều xin tùy hỉ. Tất cả chư vị Bồ Tát tu hành siêng năng khó nhọc, từng làm vô lượng việc khó làm, quyết chí cầu Đạo Bồ Đề Vô Thượng, tích tụ Công đức rộng lớn, tôi đều xin tùy hỉ.

Cứ tùy hỉ như thế đó, dù cõi hư không hết, cõi Chúng Sinh hết, nghiệp Chúng Sinh hết, phiền não Chúng Sinh hết, nhưng hạnh tùy hỉ của tôi vẫn không chấm dứt; niệm niệm nối nhau không gián đoạn, ba nghiệp thân miệng ý không nhàm chán mệt mỏi.

👉Lại nữa, này Thiện nam tử! Hạnh nguyện “Thỉnh Phật thuyết pháp” có nghĩa như thế này: Trong số vi trần ở tất cả các cõi Phật khắp Mười Phương ba đời, tận cùng hư không Pháp Giới, mỗi vi trần đều có các cõi Phật rộng lớn nhiều không thể nói hết, trong mỗi cõi Phật đó, mỗi niệm mỗi niệm đều có Chư Phật thành Đẳng Chánh Giác [18] nhiều như số vi trần ở các cõi Phật không thể nói hết, với chúng Bồ Tát đông như biển nhóm họp vây quanh; đối trước Chư Phật nhiều như thế, tôi xin đem ba nghiệp thân miệng ý, dùng mọi phương tiện, ân cần thỉnh cầu Chư Phật tuyên thuyết chánh pháp nhiệm mầu.

Cứ thỉnh cầu như thế đó, dù cõi hư không hết, cõi Chúng Sinh hết, nghiệp Chúng Sinh hết, phiền não Chúng Sinh hết, nhưng hạnh thỉnh cầu tất cả Chư Phật thuyết pháp của tôi không bao giờ chấm dứt; niệm niệm nối nhau không gián đoạn, ba nghiệp thân miệng ý không nhàm chán mệt mỏi. [19]

👉Lại nữa, này Thiện nam tử! Hạnh nguyện “Thỉnh Phật thường trụ ở đời” có nghĩa như thế này: Có bao nhiêu Chư Phật Như Lai nhiều như số vi trần trong tất cả cõi Phật ở Mười Phương ba đời, tận cùng hư không Pháp Giới, sắp thị hiện nhập niết bàn, và các bậc hữu học, vô học trong hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, cho đến tất cả các bậc thiện tri thức, tôi đều thỉnh cầu đừng nhập niết bàn, xin hãy trụ thế trải qua số kiếp nhiều như vi trần tại tất cả các cõi Phật, để làm lợi lạc cho Chúng Sinh.

Tôi cứ thỉnh cầu như thế, dù cõi hư không hết, cõi Chúng Sinh hết, nghiệp Chúng Sinh hết, phiền não Chúng Sinh hết, nhưng hạnh thỉnh Phật thường trụ ở đời của tôi không bao giờ chấm dứt; niệm niệm nối nhau không gián đoạn, ba nghiệp thân miệng ý không nhàm chán mệt mỏi. [20]

👉Lại nữa, này Thiện nam tử! Hạnh nguyện “Tinh tấn tu học theo Phật” có nghĩa như thế này: Như đức Phật Tì Lô Giá Na [21] ở Thế Giới Ta-bà này, từ khi mới phát tâm đã tinh tấn không lùi, từng đem vô số thân mạng thực hành hạnh bố thí; từng lột da làm giấy, chẻ xương làm bút, chích máu làm mực, để biên chép kinh điển, chất cao như núi Tu Di. Vì tôn trọng chánh pháp mà thân mạng cũng còn không tiếc, huống chi là ngôi vua, cùng những thứ tùy thuộc khác như cung điện, vườn rừng, hay thành ấp, xóm làng! Đã thế, Ngài còn chịu đựng khó nhọc để làm những việc khó làm, cho đến thành Đạo ở cội cây Bồ Đề, thị hiện nhiều thứ thần thông, nhiều sự biến hóa, nhiều thân Phật, ở nhiều chúng hội như ở Đạo tràng của chúng hội gồm tất cả chư vị Bồ Tát lớn, hoặc ở Đạo tràng của chúng hội gồm hàng Thanh Văn và Duyên Giác, hoặc ở Đạo tràng của chúng hội gồm Chuyển luân thánh vương, các tiểu vương và quyến thuộc, hoặc ở Đạo tràng của chúng hội gồm sát đế lợi, bà la môn, trưởng giả và cư sĩ, cho đến ở Đạo tràng của chúng hội gồm tám bộ chúng [22], người và chẳng phải người [23], vân vân. Ở nơi nhiều chúng hội như thế, đức Phật dùng âm thanh viên mãn như sấm vang, tùy theo Chúng Sinh vui thích pháp gì, Ngài đều làm cho họ đều được thành thục, cho đến khi Ngài thị hiện nhập niết bàn. Ở tất cả những Đạo tràng như thế, tôi đều xin theo Phật tu học. Trước đức Thế Tôn Tì Lô Giá Na hôm nay như vậy, mà trước tất cả các đức Như Lai nhiều như số vi trần trong tất cả các cõi Phật ở khắp Mười Phương ba đời, tận cùng hư không Pháp Giới cũng đều như vậy.

Trong mỗi niệm tôi đều xin theo Chư Phật tu học; dù cõi hư không hết, cõi Chúng Sinh hết, nghiệp Chúng Sinh hết, phiền não Chúng Sinh hết, nhưng hạnh tinh tấn tu học theo Phật của tôi không bao giờ chấm dứt, niệm niệm nối nhau không gián đoạn, ba nghiệp thân miệng ý không nhàm chán mệt mỏi.

👉Lại nữa, này Thiện nam tử! Hạnh nguyện “Hằng thuận [24] Chúng Sinh” có nghĩa như thế này: Trong tất cả các cõi ở khắp Mười Phương, tận cùng hư không Pháp Giới, có các loài Chúng Sinh sai khác nhau như noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, và hóa sinh; hoặc có các loài nương nơi đất nước gió lửa mà sinh sống, hoặc có các loài nương nơi hư không và cây cỏ mà sinh sống; rất nhiều chủng loại, rất nhiều sắc thân, rất nhiều hình trạng, rất nhiều tướng mạo, rất nhiều thọ lượng [25], rất nhiều tộc loại, rất nhiều danh hiệu, rất nhiều tâm tính, rất nhiều tri kiến, rất nhiều ham thích, rất nhiều tư tưởng, rất nhiều oai nghi, rất nhiều thứ y phục, rất nhiều thức ăn uống; cư trú ở rất nhiều xóm làng, thành ấp, cung điện, cho đến tám bộ chúng, người và chẳng phải người; hoặc không có chân, hoặc có hai chân, bốn chân, nhiều chân; có hình sắc hay không có hình sắc, có tư tưởng hay không có tư tưởng, chẳng phải có tư tưởng hay chẳng phải không có tư tưởng; đối với tất cả các loài khác nhau như thế tôi đều uyển chuyển tùy thuận để phụng sự và cung dưỡng, như kính cha mẹ, như thờ sư trưởng, cho đến các bậc A La Hán hay các đức Như Lai, không có gì khác biệt. Đối với người bệnh tôi sẽ là lương y, người bị lạc lối tôi sẽ chỉ cho con đường ngay chính, ở trong đêm tối tôi sẽ là ánh sáng, người nghèo khổ tôi sẽ giúp cho được của báu. Bồ Tát làm lợi ích cho Chúng Sinh một cách bình đẳng như thế đó. Vì sao? Vì Bồ Tát nếu tùy thuận Chúng Sinh thì tức là tùy thuận cúng dường Chư Phật, nếu tôn trọng và phụng sự Chúng Sinh thì tức là tôn trọng và phụng sự Chư Phật, nếu làm cho Chúng Sinh hoan hỉ tức là làm cho Chư Phật hoan hỉ. Vì sao? Vì Chư Phật lấy tâm đại bi làm thể tánh, bởi có Chúng Sinh mà phát khởi tâm đại bi, bởi có tâm đại bi mà phát sinh tâm Bồ Đề, bởi có tâm Bồ Đề mà thành bậc Đẳng Chánh Giác. Ví như giữa vùng sa mạc mênh mông có một cây đại thọ, nếu rễ hút được nước thì cành lá hoa trái sẽ tươi tốt sum sê. Cây Bồ Đề ở trong biển sinh tử mênh mông cũng giống như vậy. Tất cả Chúng Sinh là rễ của cây; Chư Phật và chư Bồ Tát là hoa trái của cây. Lấy nước đại bi làm lợi ích cho Chúng Sinh thì sẽ thành tựu được hoa trái Trí tuệ của Chư Phật và Bồ Tát. Vì sao? Vì Bồ Tát dùng nước đại bi làm lợi ích cho Chúng Sinh thì sẽ thành tựu quả vị Bồ Đề Vô Thượng. Bởi vậy, Bồ Đề là thuộc về Chúng Sinh. Nếu không có Chúng Sinh thì tất cả Bồ Tát đều không thể thành tựu quả vị Bồ Đề Vô Thượng. Này Thiện nam tử! Về ý nghĩa của hạnh “Hằng thuận Chúng Sinh” này, ông nên hiểu như vầy: Đem tâm bình đẳng đối với Chúng Sinh thì thành tựu được tâm đại bi một cách viên mãn; đem tâm đại bi tùy thuận Chúng Sinh thì thành tựu được Công đức cúng dường Chư Phật.

Cứ như thế đó mà Bồ Tát tùy thuận Chúng Sinh, dù cõi hư không hết, cõi Chúng Sinh hết, nghiệp Chúng Sinh hết, phiền não Chúng Sinh hết, nhưng hạnh tùy thuận của tôi không bao giờ chấm dứt, niệm niệm nối nhau không gián đoạn, ba nghiệp thân miệng ý không nhàm chán mệt mỏi.

👉Lại nữa, này Thiện nam tử! Hạnh nguyện “Hồi hướng đến khắp tất cả” có nghĩa như thế này: Từ Hạnh nguyện đầu tiên là “kính lễ Chư Phật”, cho đến Hạnh nguyện thứ chín là “tùy thuận Chúng Sinh”, có được bao nhiêu Công đức, thảy đều đem hồi hướng cho tất cả Chúng Sinh trong khắp cõi hư không Pháp Giới. Xin nguyện cho Chúng Sinh thường được an vui, không bị các bệnh khổ; muốn làm việc ác thì không thành, làm việc thiện thì thành tựu nhanh chóng; đóng chặt tất cả các cánh cửa đi vào nẻo ác, mở bày con đường chân chính dẫn đến trời, người và niết bàn. Nếu các Chúng Sinh vì chứa nhiều nghiệp ác nên phải chiêu cảm quả báo đau khổ nặng nề, tôi đều xin chịu thay, khiến cho họ đều được Giải Thoát, cho đến lúc cuối cùng thành tựu Đạo quả Bồ Đề Vô Thượng.

Cứ như thế Bồ Tát tu hạnh hồi hướng, dù cõi hư không hết, cõi Chúng Sinh hết, nghiệp Chúng Sinh hết, phiền não Chúng Sinh hết, nhưng hạnh hồi hướng của tôi không bao giờ chấm dứt, niệm niệm nối nhau không gián đoạn, ba nghiệp thân miệng ý không nhàm chán mệt mỏi.

Này Thiện nam tử! Đó là mười Hạnh nguyện lớn, đầy đủ, trọn vẹn của các vị Bồ Tát lớn. Nếu các vị Bồ Tát khéo tu tập theo mười Hạnh nguyện ấy thì có thể làm lợi ích cho tất cả Chúng Sinh, mà cũng là thuận theo Đạo quả Bồ Đề Vô Thượng, thành tựu viên mãn các Hạnh nguyện rộng lớn như biển của Bồ Tát Phổ Hiền.

Vì vậy cho nên, này Thiện nam tử! Ông nên hiểu rõ ý nghĩa của việc tu tập mười Hạnh nguyện ấy như thế này: Nếu có người Thiện nam hay thiện nữ nào dùng bảy thứ trân bảo kì diệu nhất, và các thứ vui sướng thù thắng nhất của các cõi trời và người trong tất cả Thế Giới nhiều như vi trần ở vô lượng vô biên cõi Phật khắp Mười Phương, đem bố thí cho Chúng Sinh cũng ở ngần ấy Thế Giới, cúng dường lên Chư Phật và Bồ Tát cũng ở ngần ấy Thế Giới, trải qua số kiếp nhiều như vi trần ở ngần ấy cõi Phật, cứ liên tục bố thí cúng dường như thế, không gián đoạn, được bao nhiêu Công đức; nếu đem so sánh với Công đức của một người chỉ được nghe qua một lần mười Hạnh nguyện rộng lớn này, thì Công đức của người Thiện nam hay thiện nữ ở trước không bằng một phần trăm, một phần ngàn Công đức của người sau, cho đến một phần ưu-ba-ni-sa-đà cũng không bằng. Lại nếu có một người đem lòng tin sâu xa mà thọ trì đọc tụng mười Hạnh nguyện rộng lớn ấy, thậm chí chỉ biên chép một bài kệ bốn câu, tức khắc có thể diệt trừ năm nghiệp vô gián [26]; bao nhiêu khổ não cũng như bệnh hoạn thuộc về thân, tâm trong Thế Gian, cho đến tất cả nghiệp ác nhiều như số vi trần ở cõi Phật, đều được tiêu trừ; tất cả các loài ma quân [27], quỉ dạ-xoa [28], quỉ la-sát [29], hoặc các loài quỉ thần hung dữ chuyên ăn thịt uống máu như cưu-bàn-trà [30], tì-xá-xà [31], bộ-đa [32], vân vân, thảy đều phải tránh xa, hoặc nếu gần gũi thì phát tâm bảo hộ.

Vì vậy cho nên, người đọc tụng mười Hạnh nguyện này, nếu đem thực hành trong Thế Gian, sẽ không bị chướng ngại, như mặt trăng ra khỏi đám mây mù, được Chư Phật và Bồ Tát khen ngợi, tất cả trời người đều nên kính lễ, tất cả Chúng Sinh đều nên cúng dường. Người Thiện nam ấy sẽ có được thân người với đầy đủ Công đức của Bồ Tát Phổ Hiền, và chẳng bao lâu sẽ đồng như Bồ Tát Phổ Hiền, nhanh chóng thành tựu sắc thân vi diệu, đầy đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu [33]. Nếu người ấy sinh trong cõi Người hoặc cõi Trời, sẽ ở vào dòng tộc cao quí nhất, có thể phá trừ tất cả việc ác, xa lánh tất cả bạn ác, chế ngự tất cả ngoại Đạo, Giải Thoát tất cả phiền não, như sư tử chúa xua đuổi muôn thú. Người ấy sẽ thọ nhận tất cả sự cúng dường của Chúng Sinh. Lại nữa, người này đến phút lâm chung, trong sát na cuối cùng, tất cả các căn [34] đều hư rã, tất cả quyến thuộc đều xa lìa, tất cả uy thế đều tiêu mất, tất cả đại thần, quan tướng, cung điện, thành quách trong ngoài [35], xe cộ voi ngựa, kho tàng châu báu, vân vân đều không đem theo; chỉ có mười Hạnh nguyện rộng lớn này là chẳng xa rời, luôn luôn ở trước dẫn đường, trong khoảnh khắc người ấy liền được vãng sinh về Thế Giới Cực Lạc. Đến đó rồi, liền được thấy đức Phật A Di Đà, đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, đức Bồ Tát Phổ Hiền, đức Bồ Tát Quán Tự Tại, đức Bồ Tát Di Lặc, vân vân. Các vị Bồ Tát này sắc tướng đoan nghiêm, Công đức đầy đủ, cùng đứng vây quanh. Người ấy tự thấy mình sinh trong hoa sen, được Phật thọ kí [36]. Sau khi đã được Phật thọ kí, trải qua trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, ở khắp vô số Thế Giới trong Mười Phương, người ấy dùng sức Trí tuệ, thuận theo tâm Chúng Sinh mà làm lợi ích cho tất cả, rồi chẳng bao lâu, sẽ ngồi nơi Đạo tràng Bồ Đề, hàng phục ma quân, thành bậc Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe pháp nhiệm mầu, khiến cho Chúng Sinh trong số Thế Giới nhiều như vi trần thuộc cõi Phật ấy, đều phát tâm Bồ Đề, tùy theo căn tánh của họ mà giáo hóa thuần thục; cho đến vô số kiếp ở đời vị lai, đức Phật ấy cũng đều làm lợi ích rộng lớn cho tất cả Chúng Sinh như vậy.

Này Thiện nam tử! Các Chúng Sinh kia hoặc được nghe, hoặc tin chắc vào mười Hạnh nguyện rộng lớn này mà thọ trì đọc tụng, và giảng nói rộng rãi cho mọi người được nghe biết, thì Công đức ấy, ngoài đức Phật Thế Tôn ra, không ai có thể biết hết được.

Vì vậy cho nên, khi quí vị nghe được mười Hạnh nguyện rộng lớn này rồi thì không nên sinh lòng ngờ vực, mà hãy chí thành thọ nhận, thọ nhận rồi thì nên đọc, đọc rồi thì nên thuộc, thuộc rồi thì nên thường xuyên hành trì, cho đến biên chép, giảng nói. Những người làm được như vậy thì chỉ trong một niệm, các Hạnh nguyện đều thành tựu, được phước đức vô lượng vô biên, có thể cứu vớt Chúng Sinh ra khỏi biển khổ lớn đầy phiền não, và đều được vãng sinh về Thế Giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.

Lúc bấy giờ, đức Bồ Tát lớn Phổ Hiền muốn tuyên thuyết lại ý nghĩa của mười Hạnh nguyện rông lớn này, bèn quan sát khắp Mười Phương, rồi nói kệ rằng:

✍️ Xem tiếp:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *