Sách Thiền TôngTinh hoa Đạo Phật

Quyển 02: Những câu hỏi Thiền Tông – Tập 1

✍️ Mục lục:

53- Cô Lê Thị Dung, hỏi 2 câu

Cô Lê Thị Dung, sanh năm 1960, tại Chợ Lớn. cư ngụ tại quận 6, Tp. Hồ Chí Minh, hỏi 2 câu:
Câu 1: Tu theo Thiền Tông có bắt buộc phải ăn chay không?
Câu 2: Người tu theo Thiền Tông, khi được truyền “Bí mật Thiền Tông” rồi, mà vẫn còn ăn mặn, tức chưa trường chay. Như vậy, khi lâm chung có được Giải Thoát không?

Soạn giả Nguyễn Nhân trả lời:
Câu 1: Tu theo Thiền Tông, không bắt buộc bất cứ thứ gì cả, mà người tu theo Pháp môn Thiền Tông để hiểu 4 phần căn bản như sau:
1- Tu theo Thiền Tông là để hiểu Tánh Phật của mình là gì, nếu có duyên lớn nhận ra Tánh Phật của chính mình.
2- Biết Tánh Người của mình cấu tạo ra sao và phải hiểu Tánh Người của mình là gì.
3- Tu sao được Giải Thoát, tu sao còn bị Luân hồi.
4- Phải tìm hiểu Công thức Giải Thoát.
Trên đây là 4 căn bản của người tu theo Thiền Tông. Đức Phật chỉ dạy căn bản như vậy, không bắt buộc ai cái gì cả.
Vì sao vậy?
– Vì mỗi con người ai cũng có nghiệp riêng của mình.
Nghiệp làm kiếp người hiện tại có 3 phần:
– Sống trong gia đình để trả nợ hay đòi nợ.
– Nương tựa vào gia đình để tạo Phước để được vãng sanh lên các cõi cao hưởng phúc, hoặc tạo ác để lãnh quả khổ ! Người muốn hưởng Phước hay gieo ác phải biết 2 phần:

A- Muốn hưởng nghiệp tốt: Sanh vào trong gia đình tu theo Đạo Thánh, hoặc tu theo Đạo của Như Lai mà thích làm Phước thiện và cầu mong đến các cõi sung sướng sinh sống.
B- Muốn hưởng nghiệp xấu: Sanh vào gia đình tu theo Đạo Thần, hay tu theo Đạo của Như Lai mà thích lường gạt người khác.
– Nương vào gia đình tu theo Đạo của Như Lai, hay tìm kiếm Giác Ngộ và Giải Thoát, chứ không tìm bất cứ thứ gì nơi Thế Giới Vật lý Âm Dương này.
Căn bản câu hỏi số 1 là vậy. Chứ người tu theo Pháp môn Thiền Tông không bắt buộc bất cứ thứ gì. Nếu ai đó nói bắt buộc là người đó bịa ra, chứ Đức Phật không bắt buộc ai cả.

Câu 2: Người tu theo Thiền Tông, khi đã được truyền “Bí mật Thiền Tông” rồi, tức biết được 3 phần:
– Biết được Tánh Phật của mình.
– Biết được Tánh Người của mình.
– Tu sao Giải Thoát.
– Tu sao còn bị Luân hồi.
Còn hỏi về ăn mặn có được Giải Thoát hay không, không khẳng định được.
Vì sao vậy?

Vì ăn uống của con người có 2 phần:
– Sát sanh để ăn, là còn gieo nghiệp sát, thì bị nghiệp sát sanh kéo mình đi để trả quả nghiệp sát do mình tạo ra.
– Ăn mặn mà không sát sanh, thì hên xui. Nếu ăn miếng thịt nào, mà “Tánh Hồn” của con thú đó nương vào miếng thịt mà mình ăn, thì nó kéo mình đi trả quả cho nó.

Hai phần này Đức Phật có dạy như sau: Trước kia nghiệp sát mình đã tạo ra. Hôm nay, mình biết tu Pháp môn Thanh Tịnh Thiền và biết tạo ra Công đức là để mở đường Giải Thoát. Nhưng vì, trước đây mình đã lỡ tạo ra nghiệp sát, thì Đức Phật có dạy như sau, nếu áp dụng đúng thì mới Giải Thoát được:
– Khi sắp lâm chung mà không Giải Thoát được, thì phải áp dụng Pháp môn “Nhất tự Thiền” của Đức Phật dạy, khi thân tâm Vật lý được Thanh Tịnh rồi, nói 1 tiếng cho nặng và mạnh:
“Buông!”
Tức khắc, nghiệp sát tự động nó “Buông” mình ra, Phật Tánh của mình tức khắc được thoát ra ngoài cái vỏ bọc của Tánh Người, Tánh Người của mình tự động bị hút theo dòng Luân hồi nơi Thế Giới này.
Đức Phật có dạy người này như sau:
– Khi người này đã vào được Phật Giới và định hình xong 1 Kim Thân Phật rồi, thì vị Phật này luôn lúc nào cũng nhớ nghiệp cũ của mình, nên phân thân theo vỏ bọc Tánh Người của mình trước kia, xem người nào mang vỏ bọc Tánh Người của mình. Vị Phật đó có bổn phận hướng dẫn người đang mang vỏ bọc cũ của mình làm những việc thiện.
Để chi vậy?
Để số nghiệp xấu của vỏ bọc Tánh Người đó lần lần được hóa giải và tan biến. Sau đó, hướng dẫn người mang vỏ bọc cũ của vị Phật này đến nơi lưu truyền Pháp môn Thiền Tông và trợ giúp người này trở về Bể Tánh Thanh Tịnh mới xong nhiệm vụ.
Đức Phật dạy: Người sử dụng Nhất tự Thiền chỉ có 1 lần thôi, nếu ai lỡ sử dụng rồi, thì mình phải tạo ra Công đức thật nhiều, để tự mình vượt Hải Triều Dương.

Đức Phật có dạy về lưu hành của Pháp môn Thiền Tông như sau:
Mỗi vị Phật ra đời nơi Thế Giới này, dạy Pháp môn Thiền Tông có 3 thời kỳ:

– Thời kỳ thứ nhất: Khi vị Phật đó còn sống 4 năm sau cùng, mới bắt đầu đem Pháp môn Thiền Tông ra dạy. Sau cùng, phải lập ra 1 buổi kiểm Thiền. Vị đệ tử nào nhận ra Tánh Thấy Thanh Tịnh Phật Tánh của chình mình, thì vị Phật phải công bố là môn đồ này đã đủ tư cách giữ nhiệm vụ Tổ Thiền Tông đời thứ Nhất. Và từ 7 đến 15 ngày sau, vị này phải được chính thức truyền “Bí mật Thiền Tông” có chư Phật Mười phương phân thân đến dự. Cũng từ khi Pháp môn Thiền Tông được công bố ra, được xếp vào thời kỳ “Thượng pháp”. Khi Pháp môn Thiền Tông, không còn được truyền Thiền nữa, là hết thời kỳ “Thượng pháp”.

– Thời kỳ thứ 2: Là vào thời kỳ “Trung pháp”. Thời kỳ Trung pháp này, vị nào nắm được “Mạch nguồn Thiền Tông”, thì vị này được gọi là “Thiền Tông Sư”, nếu xuất gia làm Thầy, gọi tắt là “Thiền Sư”. Còn ẩn cư, giúp người khác Giác Ngộ và Giải Thoát, người này được gọi là “Thiền Tông Gia”, gọi tắt là Thiền gia.

– Thời kỳ thứ 3: Là thời kỳ “Mạt pháp”.
Hai thời là Thượng và Trung pháp có 3 thời kỳ. Riêng thời kỳ Mạt pháp chia ra làm 4 thời kỳ:

1- Mạt Thượng pháp.
2- Mạt Trung pháp.
3- Mạt Hạ pháp.
4- Mạt Mạt pháp.

Khi đến thời kỳ Mạt Thượng pháp, thì Pháp môn Thiền Tông được bùng lên. Pháp môn Thiền Tông này bùng lên nơi nào, thì vị nhận được Mạch nguồn Thiền Tông, tự nhiên có người đem trao Huyền ký của Như Lai cho vị này, để vị này có đủ pháp gốc và đủ tư cách đứng ra hành lễ truyền “Bí mật Thiền Tông” lại cho người sau.

Và cũng từ đây:
– Vị Giác Ngộ “Yếu chỉ Thiền Tông” được cấp giấy chứng nhận mới đúng bản gốc được.
– Vị đạt “Bí mật Thiền Tông” được cấp bằng công nhận và được truyền “Bí mật Thiền Tông đúng theo qui cách mà Như Lai truyền cho ông Ma Ha Ca Diếp, đúng theo buổi lễ ban đầu nơi núi Linh Sơn.
– Vị nào giúp cho 30 người khác Giác Ngộ “Yếu chỉ Thiền Tông” và 15 người đạt được “Bí mật Thiền Tông” thì được phong là “Thiền Tông Sư” hay “Thiền Tông Gia” và cấp cho vị này bằng chứng nhận đủ tư cách truyền “Bí mật Thiền Tông lại cho người sau.

Đức Phật dạy chấm dứt Nguồn Thiền Tông:
– Vào cuối thời Mạt Hạ pháp, thì Mạch nguồn Thiền Tông phải chấm dứt.
Vì sao vậy?
Vì đến thời kỳ này, loài người tiêu diệt sự sống trên Trái Đất này gần hết. Do đó, Mạch nguồn Thiền Tông cũng mất theo.
Khi nào Pháp môn Thiền Tông này được dạy lại?

Đức Phật dạy:
– Phải đợi khi Trái Đất này dần dần bình phục lại hoàn toàn, thì vị Phật kế tiếp mới dạy Pháp môn Thiền Tông này lại. Nhưng, mỗi 1 vị Phật dạy Pháp môn Thiền Tông có thời gian tồn tại là 3 ngàn năm thôi. Còn mỗi lần Trái Đất bị loài người tiêu diệt sự sống gần hết. Trái Đất bình phục hoàn toàn lại là 10 tỷ năm!

Vì sao loài người lại tiêu diệt sự sống của Trái Đất?
– Vì Tánh của con người có đến 16 thứ, mà con người sử dụng 3 thứ nhiều nhất là Tưởng, Tham và Ác, nên họ phải tiêu diệt phần sống của Trái Đất này là đúng với Qui luật Nhân – Quả Luân hồi do sức Hành của Điện từ Âm – Dương.

Còn người đã được truyền “Bí mật Thiền Tông” mà không trường chay được, cũng có thể Giải Thoát, nhưng chỉ chiếm có 5% thôi!

Vì sao quá ít như vậy?
– Phần này, Chúng tôi đem câu hỏi của Ông A Na Luật hỏi Đức Phật; Đức Phật có dạy ông A Na Luật như sau:
– Này ông A Na Luật: Loài người và Chúng sanh sống bất cứ nơi đâu Thế Giới Nhân – Quả Luân hồi Vật lý Âm Dương này phải tuân theo Qui luật: Thành – Trụ – Hoại – Diệt! Chứ không ai sống ngoài Qui luật này được. Mỗi người sống trong Qui luật Nhân – Quả Luân hồi này phải hiểu 2 phần “Tánh” và “Tướng” mà trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa Như Lai đã dạy:

Một: Tánh là gì? Là Tánh Phật và Tánh Người, gọi chung là “Tánh”.
– Người sống trong Nhân – Quả Luân hồi phải sử dụng 1 trong 2 “Tánh”:

1- “Tánh Phật” là Thanh Tịnh, khi phát ra suy nghĩ, là suy nghĩ của Tánh Phật, Tánh Phật thì tìm phương cách giúp người khác Giác Ngộ và Giải Thoát, cái suy nghĩ này là tạo ra Công đức để sử sụng trong Bể Tánh thanh thịnh.

2- “Tánh vọng tưởng” là Tánh của con người, khi phát ra suy nghĩ là suy nghĩ tìm danh và lợi cho mình, nên tìm phương cách giúp người khác hết khổ, cái suy nghĩ này là tạo ra Phước đức để sử dụng 1 trong 3 nơi:

A- Vãng sanh đến các Cõi Trời hoặc nước Tịnh Độ để hưởng Phước dài lâu.
Ở tại Thế Giới loài người làm Vua hay Quan hoặc giàu sang phú quí.
– Giết hại các loài để thỏa mãn lòng ham sát của mình, nên phải trả Nhân – Quả với loài mình thích sát.

Đức Phật dạy về cái “Tướng” này có đến 8 phần, gồm:
– Hành động – Ăn – Mặc – Đi – Đứng – Nằm – Ngồi và Nói.
Câu hỏi thứ 2 này, cô hỏi về ăn mặn có được Giải Thoát không? Câu hỏi này thuộc về “Tướng ăn”, nên tôi lấy lời dạy của Đức Phật dạy ông A Na Luật về phần “ăn” này như sau:

Đức Phật dạy:
Ăn của con người có đến 5 muốn:
1- Người bình dân nói: Ăn để sống:
2- Người cho mình là “Thánh thiện” nói: Ăn để sống, chứ không phải sống để ăn.
3- Người chú ý về thân thể họ nói: Ăn để cho cơ thể được cường tráng và đẹp.
4- Người dụng công tu hành nói: Ăn chay để được thành “Thánh”, thành “Bồ Tát” hay thành “Phật”.
5- Người muốn cơ thể ít bệnh: Ăn để quân bình Âm Dương.
Trên đây là cán bản của người ăn nơi Thế Giới này.

Người muốn Giải Thoát để ra ngoài sức hút của Nhân – Quả Vật lý Âm Dương thì phải hiểu 3 phần ăn như sau:
Ăn động vật nào mà mình trực tiếp giết nó để ăn, thì tự mình gieo Nhân – Quả với nó.
Ăn động vật nào mà mình không giết, phần này hên xuôi. Nêu miếng thịt nào mà mình ăn, Tánh thú của nó ẩn vào đó thì mình lãnh đủ.

Đức Phật vừa dạy đến đây, ông A Na Luật trình hỏi Đức Phật:
– Kính bạch Đức Thế Tôn: Đức Thế Tôn đi khất thực, ai cúng gì Đức Thế Tôn cũng nhận, Đức Thế Tôn không sợ bị Nhân – Quả sao?

Đức Phật dạy ông A Na Luật:
– Này ông A Na Luật: Một vị toàn giác như Như Lai, thì ăn gì cũng không sao.

Vì sao vậy?
– Vì một vị toàn giác rồi, tức biết tất cả, thực phẩm mình ăn như thế nào, nếu trong thực phẩm đó có Tánh thú ẩn trong đó, Như Lai độ nó trở thành là 1 con người toàn thiện.

Như Lai cũng dạy cho ông rõ:
– Một vị toàn giác, thì Phước báo của vị ấy vô lượng, nên vị này hóa giải bất cứ thứ gì trong Thế Giới này. Dù trước kia, vị này có phạm tội gì.

Như Lai dạy ông rõ thêm:
– Khi người đạt được “Bí mật Thiền Tông” rồi, mà biết tạo ra vô lượng Công đức, thì những chuyện Nhân – Quả nơi Thế Giới Vật lý Âm Dương này, xem như là cái bóng tối vậy.
Vì sao Nhân – Quả nơi Thế Giới xem là cái bóng tối?

Như Lai đưa ra ví dụ thực tế cho ông rõ:
– Như có 1 người nho sinh nào, nghèo khổ, sống ở trong làng, thiếu trước hụt sau. Chàng nho sinh ấy, đi vay mượn khắp trong làng, đến nỗi chàng ta đến nhà nào, thì người trong nhà đó đuổi đi hoặc chửi chàng nho sinh này không tiếc lời.
Chàng nho sinh lên Kinh Đô thi đổ Trạng Nguyên, khi về làng có ai còn chửi chàng nho sinh đó nữa không; mà trái lại, còn nhận chàng nho sinh này là người thân trong làng nữa.

Vì sao vậy?
– Vì trước kia chàng ta chỉ là người nghèo khổ trong làng giống như cái bóng tối, ai ai cũng ghét và khinh.
– Hôm nay, chàng ta nhận chức quan Trạng, giống như người có 1 ánh Hào quang sáng rực, thì cái bóng tối trước kia có ăn thua gì.

Lại một ví dụ nữa:
– Có người nông dân nghèo khó, áo không có mặc, cơm không có ăn, ai ai cũng khinh chê, không muốn nhìn.
Vì sao vậy?
– Vì những người xung quanh xem người nông dân này như là cái bóng Ma đen.
Bất ngờ, người nông dân này khi làm ruộng đào được 1 hủ vàng thật to. Thì thử hỏi, cái bóng Ma nghèo khổ trước kia có còn với người nông dân này không.

Tại sao Như Lai đưa 2 phần ví dụ để dạy ông.
– Vì người nào đã tạo ra được vô lượng Công đức rồi, giống như mình đã có 1 núi vàng ròng vậy. Thì thử hỏi, vài đồng bạc lẻ nợ nần trước kia có ăn thua gì không.

Đức Phật dạy phần Giải Thoát:
Người muốn Giải Thoát có 4 điều kiện:
1- Một là phải có lòng cương quyết mãnh liệt.
2- Hai là phải rõ thông Tánh Phật và Tánh Người.
3- Ba là phải biết tạo ra Công đức.
4- Bốn là phải biết Công thức Giải Thoát.

Trên đây là 4 phần căn bản của người muốn Giải Thoát Còn chuyện ăn uống là phương tiện trợ duyên. Như người bình thường mà muốn tu Giải Thoát. Cái ăn căn bản là trường chay, nhưng trường chay theo Quy luật Âm Dương để cho cơ thể nhẹ nhàng, không lo dính vào nghiệp sát.

Video (Trích đoạn)

✍️ Mục lục: Quyển 02: Những câu hỏi Thiền Tông – Tập 1 – Xem tiếp

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *